This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Thoái hóa khớp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thoái hóa khớp. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

Những yếu tố gây đau lưng dẫn tới thoái hóa khớp

Đau lưng lâu ngày không khỏi dễ dẫn tới thoái hóa khớp,thoái hóa đốt xương sống.Nặng có thể sẽ bị liệt,ảnh hưởng tới cuộc sống,sinh hoạt thường ngày.
Đau lưng không phải là do bẩm sinh mà thường do thói quen hằng ngày của chúng ta gây nên.Dưới đây là các nguyên nhân chính dẫn tới đau lưng mà chúng tôi kể ra,các bạn nên đọc và rút kinh nghiệm để tránh đau lưng,giảm nguy cơ thoái hóa khớp nhé.
Nguyên nhân gây đau lưng không do bệnh lý:
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới WHO có đến 10% dân số thế giới bị đau lưng,và là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới mât khả năng vận động.
Thứ nhất là về mặt di truyền: Có nghĩa là nếu như bố mẹ mà có cấu trúc xương không vững,yếu hoặc lệch thì còn sinh ra thừa hưởng cấu trúc xương đó thì cũng sẽ có nguy cơ đau lưng rất cao.
Thứ hai: Đau lưng không do di truyền mà do tác phong sinh hoạt của mình không đúng.
- Ngồi làm việc sai tư thế: Ngồi cúi nhiều,ngồi nguyên một tư thế lâu.
- Đứng sai tư thế: Đứng với tư thế khom lưng quá lâu cũng dẫn tới đau lưng,hoặc đứng với tư thế không thẳng làm cong lệch cột sống lâu cũng sẽ dẫn tới đau lưng.
- Mang vác đồ vật nặng.Vật nặng khi mang vác chúng ta sẽ phải cúi người,làm cho xương sống phải chịu đựng một khối lượng lớn,dẫn đến đau.
Nguyên nhân đau lưng do bệnh lý: 
Đau lưng do bệnh lý là do một số bệnh mà khi chúng ta mắc phải cũng sẽ khiến đau lưng:
- Sỏi thận: Khi bạn bị sỏi thận thì đau lưng là điều khó tránh khỏi nhất,cảm giác đau rất khó chịu,làm cho cơ thể mệt mỏi.Cơn đau thường kéo dài triền miên mà không hề thuyên giảm.
- Tổn thương xương như viêm tủy xương,viêm khớp,viêm cột sống dính khớp... cũng sẽ dân đến đau lưng.
- Một số bệnh khác như phình động mách chèn ép xương,hoặc các loại ung thư di căn vào xương tủy cũng sẽ khiến đau lưng.
- Thiếu vitamin D cũng khiến cho cơ thể bị những cơn đau lưng dày vờ.
- Một số bệnh như viêm loét dạ dày,vảy nến,béo phì cũng dẫn đến đau lưng.
Nguyên nhân đau lưng là khá nhiều,chính vì thế mà bạn nên xác định rõ nguyên nhân gây bệnh để kịp thời điều trị,chữa trị.
Share:

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

Thoái hóa khớp bàn tay

Nhiều người thường chủ quan rằng khớp bàn tay bị thoái hóa chỉ xảy ra ở những người không làm việc hoặc bắt tay làm việc quá nhiều hay chỉ xảy ra với những người lớn tuổi,tuy nhiên điều đó hoàn toàn là không chính xác,khớp bàn tay bị thoái hóa bởi rất nhiều nguyên nhân và ở các độ tuổi khác nhau đều có thể bị mắc bệnh.Đặc biệt phụ nữa lại là những người dễ mắc bệnh thoái hóa khớp bàn tay nhất
Ở Việt Nam, theo thống kê cho thấy thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay chiếm tỉ lệ khá cao với khoảng 14% trong tổng số các loại thoái hóa khớp,nó đứng vị trí thứ tư trong bảng xếp hạng tỷ lệ mắc thoái hóa khớp thường gặp. Nguyên nhân của thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay chủ yếu là tuổi tác. Tuổi càng cao càng dễ bị thoái hóa khớp bàn tay ngón tay nguyên do là lượng máu đến nuôi dưỡng vùng khớp ngày một bị ít đi, càng làm cho sự lão hóa sụn khớp càng rõ và do tuổi tác cũng làm cho các mô sụn hay các chất bôi trơn khớp gối bị khô cứng dần đi. Ngoài ra, thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay ở người cao tuổi còn có thể do tiền sử mắc một số bệnh ở bàn tay như: đã từng bị chấn thương, gãy xương khớp hoặc hoại tử xương hay viêm khớp dạng thấp còn có nhiều khớp khác cùng bị viêm, hay với một số người là do bệnh gút mãn tính. Với một số người thì đái tháo đường cũng khiến thoái hóa khớp xuất hiện bởi thiếu canxi…

thoai hoa khop ban tay
Thoái hóa khớp tay ở người già

Ở nữ giới thì còn có nguyên nhân do giảm lượng hoóc-môn sinh dục nữ dẫn đến sự thay đổi tế bào sụn khớp cũng gây nên thoái hóa. Vì vậy, thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay nữ chiếm tỉ lệ đến  3/4 các trường hợp thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay (75%). Do đó, phụ nữ là những người phải làm việc nhiều với bàn tay của mình với công việc nội trợ như thường xuyên phải giặt giũ, lau nhà, nấu nướng…càng khiến dễ mắc bệnh thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay
Khi mắc bệnh thì biểu hiện của bệnh được nhân thấy là gai xương,hẹp khe khớp,đặc xương dưới sụn,hốc xương.        
Triệu chứng thường gặp ở thoái hóa khớp bàn tay là đau khớp,Có thể cơn đau chỉ xảy ra ở một bên bàn tay hoặc ở một số khớp trên ngón tay mà không phải ở cả bàn tay.Những cơn đau có thể xảy ra khi cử động các khớp tay đấy là với những người bị nhẹ,và đau nhức ngay cả khi các khớp tay không cử động đối với những người bị nặng hơn.
Một biểu hiện khá rõ ràng của bệnh nữa là việc cử động các khớp tay là khó khắn do bị cứng khớp vào sáng sớm lúc chúng ta ngủ dậy,bởi sau một đêm tay không hoạt động với những người bị thoái hóa khớp thì các khớp sẽ bị cứng đơ như vậy.
ð  Hậu quả của việc thoái hóa khớp tay là những cơn đau dai dẳng,là những lúc cầm nắm đồ vật nhưng không chắc chắn dễ gây rơi vỡ,ngón tay thì bị tiêu nhỏ dần hoặc các ngón tay bị biến dạng.
Cách phòng tránh và chưa trị thoái hóa khớp bàn tay là:
Bổ sung canxi cho xương khớp.
Khi nghi ngờ bị thoái hóa khớp bàn tay thì nhanh chóng đến bệnh viện để khám và điều trị kịp thời.
Một trong số những loại thuốc giúp điều trị tốt thoái hóa khớp đó là Glucosamine.

thoai hoa khop ban tay
Glucosamine




Share:

Thoái hóa đốt sống cổ

Thoái hóa đối sống cổ cũng là một loại thoáihóa khớp,còn được gọi là thoái hóa đốt sống cổ hay thoái hóa cột sống lưng.Gây là tình trạng thoái hóa ở xương cột sống-bộ phận giúp con người đứng thẳng.Thoái hóa đốt sống cổ gây ra rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và đặc biệt gây ra nhiều đau đớn cho người mắc bệnh.

thoai hoa dot song co
Thoái hóa đốt sống cổ

Thoái hóa cột sống cổ là một trong những căn bệnh phổ biến của xã hội. Thoái hóa đốt sống cổ và lưng không chỉ gặp ở những người già mà còn ở cả những người trẻ thường làm việc trong văn phòng, ít vận động hoặc phải cúi nhiều.Thoái hóa đốt sống cổ cũng là căn bệnh thường gặp ở những người phải sử dụng nhiều động tác ảnh hưởng đến vùng đầu cổ.
 Các dấu hiệu điển hình của bệnh mà dễ  nhận thấy nhất là cổ cứng nhắc khó xoay chuyển kèm với dấu hiệu đau.Ban đầu là đau cổ sau đó vùng đau sẽ  lan xuống vai rồi đau ở các khớp cổ và vai, ngoài ra còn gây đâu đầu nữa…
Theo thống kê cho thấy tỷ lệ mắc bệnh đều gặp cả hai giới nam và nữ gần như ngang nhau.

    Từ những điều trên cho thấy rằng thoái hóa đốt sống cổ là một bệnh mà bệnh nhân mắc phải không phân biệt nam nữ,không phân biệt tuổi tác,và người mắc phải không phân biệt là làm việc nặng nhọc hay chỉ là dân văn phòng-ngồi bàn giấy.

   Vậy nguyên nhân của căn bệnh này là từ đầu hãy cùng chúng tôi đi tìm nguyên nhân và phương biện pháp ngăn ngừa căn bệnh quái ác nhiều đau đớn này.
-     
                  Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thoái hóa đốt sống cổ chính là do tư thế ngồi của chúng ta.Tư thế ngồi không đúng lâu ngày khiến cho đốt sống cổ trở nên lệch lạc khỏi vị trí vốn có của nó,khiến các khớp xương bị xê dịch sai khác.Không những ngồi sai mà thậm chí việc chúng ta ngồi làm việc lâu,tư thế đầu và cổ ít thay đổi,cũng dẫn đến mỏi vùng cổ và lâu ngày thành thoái hóa đối sống cổ.

-               Tiếp theo là chấn thương vùng cổ.Những người mà không may bị tai nạn,ngã hay   là do một sự cố bất ngờ gì đó mà ảnh hưởng đến vùng cổ như bong gân,giãn dây chằng,hay là gãy xương cổ… gây ra những cơn đau ở cùng cổ cũng chính là nguyên nhân gây ra đau cổ.
-                  Một nguyên nhân không thể tránh khỏi ở tất cả mọi người đó là tuổi tác.Vì sao ư? Rất đơn giản,khi con người ta già đi tất cả các bộ phận trong cơ thể đều bị lão hóa dần,xương không là ngoại lệ.Chính vì thế mà đốt sống cổ cũng lão hóa theo.Các đốt sống cổ cũng như xương khớp chỗ khác cũng sẽ có những triệu chứng đau mỏi.
-                  Một nguyên nhân khác rất phổ biến ở Việt Nam chúng ta đó chính là chế độ dinh dưỡng.Việt Nam chúng ta còn nghèo nên chế độ ăn uống có thiếu chất dinh dưỡng rất nhiều,gây ra loãng xương và dẫn tới thoái hóa xương.Bên cạnh đó thì chế độ dinh dưỡng đầy đủ nhưng không cân đối cũng khiến thoái hóa bởi vì việc ăn nhiều mà không hợp lý sẽ dẫn tới tình trạng béo phì,gây ra sự chèn ép quá lớn tới xương khớp.
Triệu chứng thường thấy ở thoái hóa đốt sống cổ thường là đau,mỏi tuy nhiên không phải cứ đau mỏi là đốt sống cổ đã bị thoái hóa đâu nhé,mà chỉ khi những triệu chứng sau xảy ra thì bạn nên luôn và ngay đi khám để được điều trị kịp thời nhé:
-       Các động tác cổ bị vướng và đau; có thể thỉnh thoảng bị vẹo cổ.
-       Cơn đau kéo dài từ gáy lan ra tai, cổ, ảnh hưởng tới tư thế đầu cổ, đau lan lên đầu, có thể nhức đầu ở vùng chẩm, vùng trán, đau từ gáy lan xuống bả vai, cánh tay ở một bên hay ở cả hai bên.
-       Khám chỉ thấy các cử động ở cổ bị hạn chế (nặng); có thể cảm giác cứng gáy, có điểm đau khi ấn vào các gai xương và các mỏm ngang của cột sống cổ, chụp X-quang cột sống cổ thấy mất đường cong sinh lý, hẹp đĩa liên đốt, biến dạng ở thân đốt, có các gai xương.
-       Với chứng thoái hóa đốt sống cổ ở cao (đoạn C1- C2 - C4), người bệnh còn có triệu chứng nấc, ngáp, chóng mặt.
Cách phòng và tránh thoái hóa đốt sống cổ:
-       Ngồi đúng tư thế,không để lệch đốt sống cổ quá lâu,và dù ngồi đúng tư thế thì bạn cũng không nên ngồi lâu mà phải để cổ quay trái quay phải một chút.
-       Thường xuyên tập thể dục thể thao,đặc biệt là đối với cổ.
thoai hoa dot song co
Tập thể dục thế thao

-       Không mang vác nặng,hay giữ nguyên một tư thế đối với cổ quá lâu.
-       Có chế độ dinh dưỡng hợp lý,tăng cường bổ sung canxi cho xương.



Share:

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

Thực hư việc chưa viêm khớp bằng Vitamin D



Vitamin D
Vitamin D
  
Vitamin D là một trong những vitamin khác so với các loại vitamin khác. Ở điều kiện bình thường đây là loại vitamin mà cơ thể có thể tự tổng hợp được nhờ da dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. Chỉ cần phơi nắng khoảng 10 phút là cơ thể bạn sẽ tự tổng hợp ra Vitamin D đủ dùng cho ngày. Vitamin D có vai trò trung gian trong quá trình tổng hợp canxi máu. Vitamin D là làm tăng canxi máu, tăng phospho máu, tăng thải canxi niệu và tác dụng chủ yếu trên 3 cơ quan chính  của cơ thể con người.Và đặc biệt nhất và tiêu biểu nhất là tác dụng lên xương.Vitamin D có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch, giữ cho xương chắc khỏe phòng  chống lại các căn bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư đại tràng. Nếu thiếu vitamin D thì cơ thể không thể hấp thu canxi và phospho trong thức ăn, dẫn đến lượng canxi và phospho trong máu giảm, xương dễ trở nên xốp và giòn, trẻ em có thể dẫn đến còi xương, người lớn nhất là phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh dễ bị loãng và nhuyễn xương. Các hãng sữa nhấn mạnh hàm lượng calcium trong sữa có khả năng làm xương chắc khỏe tuy nhiên nếu thiếu Vitamin D thì bạn có uống sữa nhiều đến mấy vẫn cứ bị loãng xương như thường. Ở các nước nhiệt đới rất ít khi bị mắc bệnh thiếu vitamin D do khả năng tổng hợp vitamin D của da dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời.
Chính những tác dụng này của vitamin D mà có rất nhiều người đã nhầm lẫn rằng vitamin D có thể chữa khỏi viêm khớp.
Tuy nhiên các nhà khoa học đã chứng minh rằng điều đó là không phải.
Các nhà khoa học từ Đại học Tasmania (Úc) khảo sát ở 413 bệnh nhân được chia làm 2 nhóm, một nhóm bổ sung vitamin D và nhóm còn lại dùng giả dược.
Sau hai năm, các nhà nghiên cứu kiểm tra lại những người tham gia và nhận thấy không có sự khác biệt rõ rệt trong thoái hóa khớp gối giữa các nhóm.
Các chuyên gia cho rằng vitamin D và dầu cá, cả hai được cho có tác dụng trì hoãn mất sụn ở đầu gối và làm giảm viêm, không có tác động đối với chứng viêm xương khớp đầu gối,.
Viêm khớp gối ảnh hưởng đến khoảng 10% nam giới và 13% phụ nữ trên 60 tuổi.
“Phát hiện này cho thấy thiếu bằng chứng để chứng minh rằng bổ sung vitamin D làm chậm tiến triển của bệnh hoặc giảm đau đầu gối ở bệnh nhân thoáihóa khớp”, trưởng nhóm nghiên cứu Ding Changhai cho biết.


 Tuy nhiên việc sử dụng Glucosamine lại có tác dụng rất tốt trong việc điều trị và hỗ trợ điều trị thoái hóa khớp.Các bạn có thể tìm hiểu về Glucosamine tại :
http://muabanthuoconline.vn/index.php/thuc-pham-chuc-nang/glucosamine
Share:

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016

Đi tìm nguyên nhân,dấu hiệu và hướng điều trị thoái hóa khớp

Thoáihóa khớp là bệnh lý thoái hóa ở các khớp như khớp gối,khớp cổ tay hay thậm chí là các khớp ở côt sống.
Đây  là một loại bệnh lí diễn ra hết sức âm thầm nhưng sức công phá của nó lại vô cùng to  lớn.Đó là những cơn đau dữ dội về đêm,là bước chân nặng nề khi ban sáng.là sự cố gắng gượng dậy để đứng thẳng nhưng thực sự là rất khó khăn.

Thoái hóa khớp gối
Thoái hóa khớp gối

Khảo sát thực trạng bệnh:
Trong 50% dân số được phát hiện tình trạng thoái hóa xương - khớp trên phim chụp X-Quang, chỉ khoảng một nửa có triệu chứng lâm sàng. Nghĩa là rất nhiều người bị thoái hóa khớp nhưng lại không hề hay biết. Thoái hóa khớp là một trong những căn bệnh về khớp thường gặp nhất và là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây tàn phế kéo dài ở những người trưởng thành tại Mỹ. Để thấy rằng ngay cả ở một cường quốc phát triển như Mỹ với chế độ chăm sóc sức khỏe được quan tâm rất nhiều thì tỉ lệ người mắc bệnh thoái hóa khớp cũng đã rất cao huống hồ gì với một cuốc gia còn đang phát triển như Việt Nam thì tỉ lệ này sẽ là rất nhiều nếu như chúng ta thống kê lại.Vậy đâu là nguyên nhân của bệnh lí này,hãy cùng chúng tôi đi tìm nguyên nhân,dấu hiệu và phương pháp điều trị để không còn những cơn đau kéo dài của thoái hóa khớp nữa nhé.
Đi tìm nguyên nhân của thoái hóa khớp:
Thoái hóa khớp không được phát hiện sớm do các triệu chứng ban đầu thường bị người bệnh chủ quan bỏ qua với suy nghĩ “chỉ người già mới mắc bệnh khớp”. Thực tế, có hơn 30% người trên 35 tuổi bị thoái hóa khớp. Và do không điều trị kịp thời, bệnh tiến triển ngày một nặng hơn. Thoái hóa khớp nguy hiểm vì không chỉ gây đau đớn mà còn ảnh hưởng đến chức năng vận động, sinh hoạt hàng ngày, làm giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí gây tàn phế ngay cả khi người bệnh chỉ mới bước qua tuổi trung niên. Bạn cần học cách nhận biết triệu chứng thoái hóa khớp và khắc phục ngay khi bệnh mới chớm. Dưới đây là các triệu chứng ở các vị trí thường gặp:
Thoái hóa cột sống thắt lưng: Triệu chứng khởi phát là đau âm ỉ vùng cột sống thắt lưng, có khi đau đột ngột do mang vác, khiêng xách nặng hay do sai tư thế. Các cơn đau có thể liên tục hoặc từng đợt, hay tái phát và thường đau tại chỗ, không lan xa, đau tăng khi thay đổi tư thế, khi vận động nhiều, khi thay đổi thời tiết… Khi nằm nghỉ, các cơn đau sẽ giảm nhẹ.
Thoái hóa cột sống cổ: Dấu hiệu lâm sàng của bệnh này là đau vùng cổ gáy cấp hoặc mãn tính, đau tăng khi mệt mỏi, căng thẳng, lao động nặng, khi thay đổi thời tiết… Đi kèm với đau cổ là nhức đầu vùng chẩm, thái dương, trán và hai hố mắt thường đau vào buổi sáng. Có khi, bệnh nhân còn cảm thấy tê tay do đám rối thần kinh cánh tay bị chèn ép hoặc nhức đầu, chóng mặt, ù tai, hoa mắt, mờ mắt, nuốt vướng… do ảnh hưởng của động mạch đốt sống cổ.
Thoái hóa khớp gối: Triệu chứng rõ và dễ thấy nhất vẫn là những cơn đau, đau mặt trước hoặc trong khớp gối, đau tăng khi vận động, lên xuống bậc thang, ngồi xổm, gấp gối, thay đổi thời tiết… Khi di chuyển, người bệnh có thể nghe tiếng “lạo xạo” trong khớp gối. Thỉnh thoảng, khớp gối có thể bị cứng hoặc sưng to.
Hướng điều trị:
Bổ sung dinh dưỡng khớp gối
Bổ sung dinh dưỡng khớp

Khi nhận thấy bất kỳ dấu hiệu “cảnh báo” nào như trên, bạn cần áp dụng liệu pháp phục hồi xương khớp ngay lập tức. Chuyên gia xương khớp đầu ngành tại Mỹ cho biết thoái hóa khớp nếu phát hiện sớm có thể điều trị dứt điểm và an toàn bằng liệu pháp dinh dưỡng. Thực chất thoái hóa khớp do các thói quen có hại cho khớp, chế độ dinh dưỡng thiếu dưỡng chất cho khớp và quá trình lão hóa khiến sụn, dịch khớp và các dây chằng bị tổn thương. Liệu pháp bổ sung dinh dưỡng cho xương khớp được các chuyên gia hàng đầu thế giới khuyên dùng vì phương pháp này chữa lành tổn thương khớp theo cơ chế tự chữa trị và hồi phục của cơ thể, giúp giảm đau theo cơ chế tự nhiên, không gây tác dụng phụ.
Bổ sung dinh dưỡng khớp đồng nghĩa với việc cung cấp cho khớp nguồn dịch khớp bị hao hụt,  làm lành tổn thương sụn khớp, tăng lưu thông máu đến nuôi dưỡng khớp, các cơ liên kết và dây chằng. Nguồn dinh dưỡng này là sự kết hợp 3 thành phần chính được tìm thấy trong sụn khớp khỏe mạnh, cụ thể là:
Glucosamine: có tác dụng bảo vệ và tái tạo tế bào sụn khớp, tăng nuôi dưỡng sụn khớp. Glucosamine đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới trong những năm qua, đây là thành phần chính trong hầu hết đơn thuốc sử dụng cho bệnh nhân thoái hóa khớp. Glucosamine đã được cơ quan dược phẩm châu Âu (EMEA) đưa vào danh mục thuốc giúp cải thiện cấu trúc trong bệnh khớp.

thực phẩm chức năng
Glucosamine hỗ trợ điều trị thoái hóa khớp

Collagen Type II: cung cấp hai thành tố chính là chondroitin và hyaluronic acid, giúp tăng cường dịch nhầy bôi trơn ổ khớp và tăng nuôi dưỡng sụn, tăng khả năng đàn hồi của sụn và hạn chế quá trình phá hủy sụn do lão hóa hoặc lối sống thiếu khoa học.
MSM: một hoạt chất có công dụng giúp khớp thoái hóa vận động dễ dàng hơn và giảm đau.
Các dưỡng chất trên đều là thành phần cơ bản của sụn khớp. Tuy nhiên, nguồn thực phẩm hàng ngày chứa rất ít 3 dưỡng chất đặc trưng này. Bên cạnh đó, cơ thể con người cũng suy giảm chức năng sản xuất dịch khớp và sụn khớp do quá trình lão hóa. Vì thế, lời khuyên của các chuyên gia là nên bổ sung nguồn dưỡng chất “3 trong 1” kể trên thông qua các sản phẩm dinh dưỡng khớp theo đường uống. Đối tượng cần bổ sung là người cao tuổi, người bị thoái hóa khớp, dân công sở ở độ tuổi trung niên và người khỏe mạnh nhưng có ý thức cao về sức khỏe, muốn phòng ngừa bệnh khớp ngay khi còn trẻ.


Share:

Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016

Viêm khớp dẫn đến Gout - Con đường quá ngắn

Ba giai đoạn kinh điển trong quá trình tiến triển tự nhiên của bệnh gout là:

- Viêm khớp do gout cấp lâu ngày sẽ dẫn tới thoái hóa khớp

- Giai đoạn không triệu chứng giữa các đợt viêm khớp gout cấp 
- Tái phát mãn tính và nốt tophi   

Mức độ biểu hiện lâm sàng thường song song với tần số của các đợt gout cấp và cuối cùng là sự phát triển thành bệnh gout mãn tính với nốt tophi. Điều trị bằng thuốc hạ urate không giúp chữa lành bệnh, nhưng có thể thiết lập lại quá trình tiến triển của bệnh.


Hiện nay, với phương pháp điều trị hiệu quả, sự tiến triển của bệnh gout đến giai đoạn mãn tính thường ít thấy hơn ở các bệnh nhân gout tiên phát và thứ phát tuân thủ điều trị.


Bệnh tiến triển nặng thường xảy ra ở những bệnh nhân không tuân thủ điều trị, không được giải thích cặn kẽ kế hoạch điều trị, mắc bệnh gout nhưng không được chẩn đoán, điều trị thuốc hạ urate không đủ liều, sử dụng thuốc ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc hạ urate, và những bệnh nhân có ghép tạng.


1. Viêm khớp do gout cấp 


1.1 Lâm sàng


Viêm khớp do gout cấp thường xảy ra sau nhiều năm tăng acid uric máu không triệu chứng, biểu hiện lâm sàng của cơn gout cấp điển hình có các đặc điểm sau:     


- Sưng, nóng, đỏ, đau dữ dội và mất chức năng khớp, các triệu chứng thường đạt cực đại trong vòng 12 đến 24 giờ. Cơn gout cấp đầu tiên hầu như luôn rút đi trong vòng vài ngày đến vài tuần, kể cả ở những bệnh nhân không được điều trị.


- Ít nhất 80% cơn gout cấp đầu tiên xảy ra ở một khớp duy nhất, và đó thường là ở khớp bàn ngón chân cái hoặc khớp gối.


- Phản ứng viêm có thể vượt ra ngoài ranh giới của khớp viêm, như viêm cạnh khớp, viêm bao gân, hoặc thậm chí viêm mô tế bào.


- Viêm khớp cổ chân, khớp bàn ngón chân, khớp cổ tay, khớp bàn ngón tay, hoặc khớp khuỷu, có thể xảy ra trong cơn gout cấp đầu tiên nhưng thường gặp hơn trong các đợt tái phát ở giai đoạn sau. Những vị trí khác như khớp vai, khớp háng, khớp ức đòn, cột sống và khớp cùng chậu cũng có thể bị, gây nhầm lẫn trong chẩn đoán.


- Các đợt viêm khớp mơ hồ cũng có xảy ra ở một số bệnh nhân. Tuy nhiên, những đặc điểm này chưa được nghiên cứu.


- Bất thường về cận lâm sàng thường không đặc hiệu. Tăng bạch cầu đa nhân trung tính và/hoặc tăng tốc độ máu lắng hoặc CRP thường gặp trong cơn gout cấp, nhưng cũng được ghi nhận trong các bệnh lý viêm khớp cấp tính khác nên ít có giá trị chẩn đoán.


Diễn giải nồng độ acid uric máu trong đợt bùng phát bệnh gout cấp đôi khi rất khó. Ví dụ, trong những tháng đầu điều trị bằng thuốc hạ urate, các đợt bùng phát bệnh gout thường xảy ra với nồng độ acid uric huyết thanh bình thường hoặc thậm chí thấp. Nồng độ acid uric máu thấp có thể là do tác động của các cytokine trong đợt bùng phát. Nồng độ acid uric máu trong khoảng bình thường đến thấp đã được ghi nhận ở 12-43% bệnh nhân có đợt bùng phát bệnh gout.


Ở những bệnh nhân nghi ngờ có bệnh gout dựa trên các đặc điểm đã nói ở trên, nồng độ acid uric máu cao (≥ 6.8 mg/dL) có thể hỗ trợ cho việc chẩn đoán nhưng không phải là tiêu chuẩn chẩn đoán. Thời gian chính xác nhất để đánh giá nồng độ acid uric máu là hai tuần hoặc hơn sau khi cơn gout cấp thoái lui hoàn toàn.


Bắt đầu điều trị thuốc hạ urate có thể thúc đẩy viêm khớp gout cấp. Vì vậy điều trị dự phòng là cần thiết để ngăn chặn điều này.


1.2 Yếu tố thúc đẩy 


Chấn thương, phẫu thuật, đói, béo phì và ăn uống quá mức, mất nước, uống các loại thuốc ảnh hưởng đến nồng độ acid uric huyết thanh (tăng hoặc giảm) (ví dụ, allopurinol, uricosuric, thuốc lợi tiểu thiazide, lợi tiểu quai) và aspirin liều thấp có thể thúc đẩy các đợt bùng phát gout. Ở nam giới, gia tăng tiêu thụ rượu (bia và rượu mạnh, không bao gồm rượu vang) làm tăng nguy cơ phát triển bệnh gout.


Tiêu thụ nhiều thịt và hải sản làm tăng nồng độ acid uric máu, trong khi tăng tiêu thụ các sản phẩm sữa ít chất béo giúp giảm acid uric máu. Lượng thịt và hải sản trong chế độ ăn uống liên quan có ý nghĩa với tăng nguy cơ phát triển viêm khớp gout.


1.3 Bệnh gout đa khớp cấp


Biểu hiện ban đầu của bệnh gout với bệnh cảnh viêm đa khớp gặp trong ít hơn 20% bệnh nhân nhưng xảy ra với tần số ngày càng tăng trong các đợt bùng phát sau đó. Triệu chứng viêm đa khớp xuất hiện ở các bệnh nhân gout không được điều trị, bệnh tái phát nhiều, và khoảng thời gian không có triệu chứng ngắn hoặc vắng mặt. Nốt tophi thường thấy trong giai đoạn này.


Đợt gout cấp đầu tiên với bệnh cảnh viêm đa khớp thường gặp ở những bệnh nhân tăng acid uric máu và bệnh gout thứ phát do tăng sinh bạch cầu dòng lymphô hay dòng tuỷ hoặc ghép tạng đang được điều trị với cyclosporin A.


1.4 Chẩn đoán bệnh gout cấp


Chẩn đoán bệnh gout cấp chắc chắn nhất khi tìm thấy tinh thể urate trong dịch khớp bị ảnh hưởng (hoặc túi thanh mạc). Nếu không thể lấy dịch khớp thì chẩn đoán tạm thời có thể được thực hiện dựa vào các dữ liệu lâm sàng, bao gồm khai thác bệnh sử, khám lâm sàng, xét nghiệm thích hợp, và chẩn đoán hình ảnh.


Tiêu chuẩn lâm sàng chẩn đoán bệnh gout - Trong trường hợp không có phương tiện để xác định tinh thể urate hoặc sử dụng kính hiển phân cực không tìm thấy tinh thể urate, chẩn đoán sơ khởi bệnh gout có thể được thực hiện bởi sự kết hợp của các tiêu chuẩn lâm sàng và bệnh sử.


Phương pháp chẩn đoán này phải được coi là tạm thời và ít đặc hiệu. Lâm sàng, tiêu chuẩn hình ảnh, và cận lâm sàng có thể hữu ích bao gồm:


- Bệnh sử điển hình của một hay nhiều đợt viêm một khớp, xen kẽ giữa các đợt bùng phát là những giai đoạn không có trriệu chứng.


- Cường độ viêm đạt tối đa trong vòng 24 giờ


- Viêm khớp bàn ngón chân cái 1 bên 


- Sự hiện diện của một tổn thương có thể nhìn thấy hay sờ thấy, mà theo vị trí và đặc điểm có khả năng là nốt tophi


- Tăng acid uric máu


- U nang xương dưới vỏ trên X quang hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) xác định các nốt tophi hoặc hình ảnh khuyết xương. Những thay đổi nhìn thấy trên hình ảnh không thể phát hiện được tại thời điểm đợt bùng phát cấp tính đầu tiên của viêm khớp do gout.


- Chụp cắt lớp (CT) năng lượng kép xác định lắng đọng tinh thể urate. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chụp cắt lớp năng lượng kép có thể xác định urate trong khớp và quanh khớp và có thể được phân biệt với lắng đọng canxi.    


- Siêu âm khớp cho thấy một vùng tăng âm phủ lên sụn hoặc các nốt tophi. Trong các nghiên cứu trên bệnh nhân có chẩn đoán lâm sàng nghi ngờ hoặc đã được kiểm chứng bệnh gout, siêu âm phát hiện vùng tăng âm (HCA) có độ nhạy và độ đặc hiệu đối với bệnh gout là 79 và 95%, trong khi dấu hiệu đường viền đôi (DCS) ở bề mặt sụn có độ nhạy và độ đặc hiệu là 44 và 99%.


Ở những bệnh nhân có tăng acid uric máu không triệu chứng trong một nghiên cứu thực nghiệm nhỏ, cả HCA và DCS được tìm thấy ở các khớp xương của một số bệnh nhân mà chưa bao giờ có triệu chứng của viêm khớp do gout. Ý nghĩa của nghiên cứu này liên quan đến việc chẩn đoán bệnh gout ở những bệnh nhân không có triệu chứng và cần tiếp tục được thảo luận, nghiên cứu thêm.


Độ chính xác của chẩn đoán lâm sàng mà không cần xác nhận sự hiện diện của tinh thể urate là không chắc chắn. Một nghiên cứu trên 30 bệnh nhân bị bệnh gout cho thấy sự hiện diện của hai trong số ba tiêu chí Roma (acid uric huyết thanh ≥ 7 mg/dL; hiện diện của các hạt tophi, hoặc đau sưng khớp khởi phát đột ngột và khỏi bệnh trong vòng 1-2 tuần) có giá trị tiên đoán dương là 77%. Không có tiêu chuẩn lâm sàng nào có độ nhạy > 70% hay độ đặc hiệu > 89%.


Một hình ảnh lâm sàng thích hợp và nồng độ acid uric huyết thanh cao gợi ý chẩn đoán viêm khớp do gout cấp. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, một số lượng đáng kể các trường hợp vào thời điểm của đợt bùng phát, có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường hoặc thậm chí thấp.


Ngược lại, những bệnh nhân bị viêm khớp cấp tính do các nguyên nhân khác không phải do gout có thể có tăng acid uric máu ngẫu nhiên.


Một phương pháp chẩn đoán đã được đề xuất để cải thiện độ chính xác của chẩn đoán mà không cần phân tích dịch khớp, trong đó kết hợp nhiều đặc điểm mô tả ở trên.


Quy tắc này được dựa trên một phân tích 328 bệnh nhân viêm một khớp được thăm khám đầu tiên bởi bác sĩ gia đình ở Hà Lan; bệnh nhân cũng được các chuyên gia phân tích dịch khớp.


Mô hình này sử dụng bảy biến, có thể giúp các bác sĩ gia đình phân biệt ba cấp độ nguy cơ của bệnh gout. Các biến và giá trị điểm sau đây được sử dụng:


-    Nam (2 điểm)

-    Bệnh nhân khai có đợt viêm khớp trước đó (2 điểm)
-    Khởi phát trong vòng một ngày (0,5 điểm)
-    Đỏ khớp (1 điểm)
-    Viêm khớp bàn ngón chân cái lần đầu (2,5 điểm)
-    Tăng huyết áp hoặc ít nhất có một bệnh tim mạch (1,5 điểm)
-    Nồng độ acid uric huyết thanh lớn hơn 5,88 mg/dL (3,5 điểm)

Trong nghiên cứu, điểm thấp (≤ 4 điểm), trung bình (5-7 điểm) và cao (≥ 8 điểm) có xác suất xác định bệnh gout lần lượt là 2,2%, 31,2% và 82,5%. Cách tiếp cận này có tỷ lệ chẩn đoán dương tính giả ít hơn so với dựa vào lâm sàng của bác sĩ gia đình (17% so với 36%). Bệnh nhân có mức điểm trung bình sẽ được lợi nhiều hơn từ việc đánh giá kỹ hơn nữa bằng phân tích dịch khớp. Quy tắc này chỉ được áp dụng cho những bệnh nhân viêm một khớp.


Lành bệnh - Lành bệnh của đợt bùng phát gout cấp đôi khi đi kèm bong vảy da vùng khớp bị ảnh hưởng.


1.5 Chẩn đoán phân biệt của viêm khớp gout cấp


Một số bệnh lý có thể có triệu chứng giống với viêm khớp do gout cấp. Phân tích dịch khớp gồm nhuộm Gram, cấy và soi dưới kính hiển vi ánh sáng phân cực cho phép phân biệt bệnh gout với các bệnh dưới đây trong phần lớn các trường hợp.


Chẩn đoán phân biệt viêm khớp do gout cấp ở một khớp với:


- Viêm khớp nhiễm trùng - viêm một khớp do gout cấp có thể có hình ảnh lâm sàng không thể phân biệt với viêm khớp nhiễm trùng cấp, bao gồm sốt, tăng bạch cầu, và tốc độ máu lắng tăng. Trong một số ít trường hợp, cơn gout cấp và viêm khớp nhiễm trùng cùng tồn tại.


- Chấn thương - đợt bùng phát gout nhẹ có thể giống với một trường hợp gãy xương hoặc chấn thương xương/khớp.


- Bệnh giả Gout (Canxi hóa sụn khớp) - do lắng đọng vi tinh thể pyrophosphate calci thường gặp ở người trên 60 tuổi. Trong một số trường hợp, cả tinh thể urate và pyrophosphate calci được xác định trong các bạch cầu trung tính ở dịch khớp khi 2 bệnh này cùng tồn tại.


- Viêm khớp tinh thể khác - Viêm khớp hoặc viêm quanh khớp do sự lắng đọng của tinh thể calcium phosphate thường không thể chẩn đoán một cách chắc chắn bằng kính hiển vi phân cực vì các tinh thể này có độ phân giải thấp hơn bước sóng của ánh sáng chuẩn trong kính hiển vi phân cực và chúng cũng có tính lưỡng chiết. Khi đó, kính hiển vi điện tử và kính hiển vi huỳnh quang sẽ giúp xác định các tinh thể này.


- Khác - Chẩn đoán phân biệt trên các bệnh nhân có tiền sử nhiều đợt viêm khớp tự khỏi hay cải thiện nhanh chóng và hoàn toàn khi được điều trị với các loại thuốc kháng viêm không steroid bao gồm viêm khớp phản ứng, thấp khớp cấp, và giả Gout.


2. Giai đoạn không triệu chứng giữa các đợt gout cấp


Sau khi cơn Gout cấp thoái lui, bệnh nhân vào giai đoạn không triệu chứng. Trong giai đoạn sớm của bệnh, ngay cả sau các đợt bùng phát cấp nghiêm trọng và mất chức năng, giữa các đợt cấp cũng thường hoàn toàn không có triệu chứng.


Đặc điểm này không thường gặp trong các bệnh viêm khớp khác, ngoại trừ bệnh lắng đọng tinh thể, điều này có giá trị gợi ý chẩn đoán bệnh gout.


Khoảng thời gian giữa các đợt bùng phát viêm khớp do gout thay đổi. Hầu hết bệnh nhân không được điều trị sẽ có đợt bùng phát thứ hai trong vòng hai năm.


Ví dụ, một nhóm lớn các bệnh nhân được nghiên cứu trước khi điều trị hạ urate hiệu quả thì phát hiện 62% bệnh nhân có đợt bùng phát thứ hai trong năm đầu tiên, 78% trong vòng hai năm, và 93% trong vòng 10 năm.


Đợt bùng phát viêm đa khớp do gout có thể xảy ra theo một tuần tự (di chuyển) hoặc đồng thời hoặc có thể liên quan đến các khớp xương, gân, và túi hoạt dịch lân cận. Ăn mòn xương và biến dạng có thể tiến triển (bệnh gout mãn tính), làm rút ngắn dần khoảng thời gian không có triệu chứng.


Giai đoạn này của bệnh khớp gout mãn tính thường đi kèm với lắng đọng các hạt tophi góp phần gây biến dạng và tàn tật.


Đánh giá - các phương tiện sẵn có để kiểm soát sự tăng acid uric máu một cách hiệu quả làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát viêm khớp do gout và các hạt tophi ở bệnh nhân tuân thủ điều trị hạ urate lâu dài. Khoảng thời gian giữa các đợt bùng phát ban đầu giúp:


- Thiết lập chẩn đoán bệnh gout nếu chẩn đoán đã không được thực hiện trong đợt bùng phát.


- Xác định và làm giảm các nguyên nhân có thể đảo ngược của tăng acid uric máu, có khả năng loại bỏ việc điều trị hạ urate dài hạn


- Phân loại bệnh nhân liên quan đến các cơ chế cơ bản gây tăng acid uric máu và bệnh gout, trong đó có những nguyên nhân gây tăng acid uric máu thứ phát do sản xuất quá nhiều hoặc giảm bài tiết.


- Chỉ định liệu pháp điều trị kháng viêm và hạ urate dự phòng.


Đánh giá bệnh nhân và tiến hành điều trị các bệnh đi kèm thường gặp ở bệnh nhân gout (như tăng huyết áp, suy giảm chức năng thận mãn tính, bệnh tim mạch, và hội chứng rối loạn chuyển hóa). 


3. Bệnh gout mạn tính có nốt tophi


Bệnh gout mạn tính có nốt tophi đặc trưng bởi sự lắng đọng tinh thể urate trong các mô liên kết (mà đôi khi có thể bị vôi hóa). Những nốt tophi có thể được nhận biết dễ dàng trên lâm sàng hoặc qua chụp X quang, CT scan, siêu âm hay MRI, đó là vì nhiều bệnh nhân bị gout và tăng acid uric máu kéo dài có sự lắng đọng các tinh thể urate không rõ ràng về mặt lâm sàng như chúng ta dự đoán.


3.1 Hình ảnh lâm sàng


Nốt tophi có thể nhìn thấy và/hoặc sờ thấy ở tai hoặc trong các mô mềm khác bao gồm cấu trúc khớp hoặc túi hoạt dịch. Nốt tophi thường không gây căng đau. Nốt tophi có thể bào mòn da, lộ ra một màu vàng hoặc trắng dưới da.


Trên tai, nốt tophi không cản quang. Phản ứng viêm tạo u hạt mạn tính được ghi nhận khi sinh thiết mô tổn thương, và đôi khi, có hiện tượng viêm cấp tính cùng với đợt viêm khớp do gout ở cạnh một hoặc nhiều nốt tophi.


Phản ứng viêm có thể lan rộng ra ngoài giới hạn của một khớp, làm cho khớp sưng to hơn do sự hiện diện của hạt tophi và/hoặc phản ứng viêm. Hình dạng có thể tương tự như viêm khớp trong các bệnh lý khác, chẳng hạn như viêm khớp vẩy nến, bệnh khớp cột sống, và bệnh sarcoidosis. Những tổn thương phá huỷ và lan rộng do bệnh gout có nốt tophi có thể nhầm lẫn với viêm tủy xương và đôi khi dẫn đến cắt cụt ngón do chẩn đoán sai.


Hình ảnh lâm sàng của bệnh gout mãn tính có nốt tophi có thể bị nhầm lẫn với các bệnh lý viêm đa khớp mạn tính khác như viêm khớp dạng thấp (đặc biệt nếu nhầm lẫn nốt tophi với các nốt dạng thấp).


Trong trường hợp này, tổn thương khớp thường không đối xứng và không đồng bộ trong bệnh gout, sự hiện diện của các tinh thể urate ở các tổn thương dạng nốt, và hình ảnh X quang thường đủ để phân biệt giữa các bệnh lý này.


3.2 Chẩn đoán hình ảnh


Xương bị ăn mòn do nốt tophi có hình ảnh gai đặc trưng. Các đặc tính của hạt tophi trên MRI bao gồm tín hiệu tương đối đồng nhất từ trung gian đến thấp trên T1W, cũng như hình ảnh T2W có tăng cường độ tín hiệu. Kích thước nốt Tophi có thể được ước tính trên MRI hoặc lượng định bằng CT năng lượng kép, nhưng ý nghĩa lâm sàng lại không được chắc chắn.   


Siêu âm kiểm tra sự lắng đọng tinh thể ở khớp và mô mềm là một phương thức ngày càng được hứa hẹn cho việc phát hiện sớm và theo dõi điều trị bệnh gout. Đường tăng âm phủ lên bề mặt của sụn khớp là một hình ảnh gợi ý.


4. Biến chứng thận do tăng acid uric máu mãn tính


Có hai biến chứng chủ yếu trên thận do tăng acid uric máu mãn tính: sỏi thận và bệnh thận urate mãn tính.


Sỏi thận - bệnh nhân gout có thể có sỏi urate. Sỏi urate đơn thuần chiếm 5-10% sỏi đường tiết niệu ở Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng chiếm hơn 40% sỏi đường tiết nệu ở những vùng có khí hậu nóng khô hạn.


Tỷ lệ sỏi urate ở những bệnh nhân có bệnh gout trước khi điều trị hạ urate hiệu quả là khoảng 20%, lớn hơn so với nhóm không mắc bệnh gout. Mặc dù nhiều sỏi đường tiết niệu ở những bệnh nhân bị bệnh gout được cấu tạo hoàn toàn là urate, nhiều sỏi cũng có chứa canxi oxalate hoặc canxi phosphate bao xung quanh một nhân urate.


Có ba yếu tố nguy cơ chính đối với sỏi urate ở thận:


-    Tăng bài tiết axit uric

-    Tỷ trọng nước tiểu giảm
-    pH nước tiểu thấp

Bệnh thận urate mãn tính - Suy thận thường gặp ở những bệnh nhân bị bệnh gout nhưng thường phản ánh sự cùng tồn tại của các bệnh lý khác như cao huyết áp, đái tháo đường, béo phì, xơ vữa động mạch.


Ngoài ra, các tinh thể urate có thể lắng đọng trong mô kẽ ở tủy thận, tạo ra phản ứng viêm mãn tính và mức độ xơ hóa khác nhau. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh thận urate mãn tính là creatinine huyết thanh tăng cao, cặn nước tiểu sạch, và tăng acid uric máu không tương xứng với mức độ suy thận.


5. Chẩn đoán gout mạn tính và gout giai đoạn không triệu chứng 


Ngay cả trong giai đoạn không có triệu chứng giữa hai đợt cấp, các tinh thể urate có thể được xác định trong dịch khớp từ khớp viêm trước đó trong phần lớn các trường hợp bệnh nhân gout không được điều trị và khoảng 70% những bệnh nhân được điều trị hạ acid uric máu.


Điều này cho phép xác lập chẩn đoán muộn trong đa số các bệnh nhân không được chẩn đoán trong giai đoạn cấp.


Xác nhận các tinh thể urate trong dịch hút từ nốt tophi giúp chứng thực chẩn đoán trong một tỷ lệ nhỏ các bệnh nhân gout có nốt tophi.


Trong trường hợp không có các phương tiện để xác định các tinh thể urate hoặc soi bệnh phẩm dưới kính hiển vi phân cực, chẩn đoán bệnh gout được thực hiện dựa vào sự kết hợp của các tiêu chuẩn lâm sàng và bệnh sử.


Theo BS. Cao Thị Lan Hương - Tạp chí Nhịp sống y khoa
Share:

Phòng tranh thoái hóa khớp bàn tay hiệu quả

 Thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay khởi xướng ở tuổi trưởng thành và thường gặp nhiều nhất là người tuổi từ 55 trở lên. Bệnh gây đau, làm ảnh hưởng nhiều đến chức năng vận động, thậm chí gây tàn phế và ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt hằng ngày của người bệnh.
Theo các chuyên gia, có tới 200 loại viêm khớp khác nhau và  loại thường gặp nhất là thoái hóa khớp. Viêm khớp có rất nhiều người gặp phải, có cả nam và nữ giới, thậm chí có cả trẻ em, nhưng thoái hóa khớp chủ yếu gặp ở người đã trưởng thành, đặc biệt là người cao tuổi (NCT).
Thoái hóa khớp là sự tổn thương dần dần bởi năm tháng các mô sụn, tổ chức dưới sụn, các tổ chức đàn hồi bảo vệ khớp (dây chằng khớp, bao khớp...) và ngay cả dịch khớp. Khớp nào cũng có thể bị thoái hóa nhưng khớp nào chịu lực nhiều nhất (khớp cột sống thắt lưng, khớp gối, cổ chân) hoặc thường xuyên vận động (cột sống cổ, khớp khuỷu, khớp bàn tay, ngón tay…) sẽ dễ bị thoái hóa hơn. Bệnh lý thoái hóa khớp thường nặng dần lên, nếu không đươc chữa trị sớm các phần sụn khớp có thể bị tách ra khỏi xương, các đầu xương sẽ bắt đầu cọ xát vào nhau, các dây chằng của khớp đó sẽ giãn ra và yếu dần.
Ở Việt Nam, theo thống kê, thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay chiếm tỉ lệ khá cao (khoảng 14%), đứng hàng thứ tư trong các vị trí thoái hóa khớp thường gặp. Nguyên nhân của thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay chủ yếu là tuổi tác. Tuổi càng cao càng dễ bị thoái hóa khớp bàn tay ngón tay do lượng máu đến nuôi dưỡng vùng khớp ngày một bị giảm sút càng làm cho sự lão hóa sụn khớp càng rõ. Ngoài ra, thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay ở NCT còn có thể do tiền sử mắc một số bệnh ở bàn tay như: chấn thương, gãy xương khớp, hoại tử xương, viêm khớp dạng thấp (còn có nhiều khớp khác cùng bị viêm), bệnh gút mạn tính, đái tháo đường, thiếu canxi… hoặc do giảm lượng hoóc-môn sinh dục nữ (nữ giới) dẫn đến sự thay đổi tế bào sụn khớp, gây thoái hóa. Vì vậy, thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay nữ chiếm tỉ lệ đến  3/4 các trường hợp thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay (75%). Do đó, phụ nữ là những người phải làm việc nhiều với bàn tay của mình với công việc nội trợ (giặt giũ, lau nhà, nấu nướng…) càng dễ mắc bệnh thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay.
Biểu hiện của thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay sẽ được thể hiện khi chụp X-quang khớp bàn tay, với các dấu hiệu cơ bản là gai xương, hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn, hốc xương.
Triệu chứng
Một trong các triệu chứng hay gặp nhất của thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay là đau khớp. Cơn đau có thể xuất hiện ở một bên hoặc hai bên bàn tay, nhẹ hay nặng và đau tăng lên khi cứ động, vận động, giảm đau khi nghỉ. Đồng thời hạn chế khả năng vận động và tính linh hoạt của khớp sẽ bị suy giảm rõ rệt (không cầm nắm, xoay chuyển nhịp nhàng như khi chưa bị thóa hóa khớp), nhất là vào buổi sáng, lúc vừa ngủ dậy. Song song với đau khớp là cứng khớp. Cứng khớp làm hạn chế cử động, hạn chế các động tác cầm nắm, xoay chuyển. Cứng khớp thường xuất hiện vào buổi sáng vừa mới ngủ dậy. Cứng khớp biểu hiện như: bàn tay, ngón tay khó cử động hoặc cử động không mềm mại, uyển chuyển và dần dần sẽ xuất hiện hiện tượng khó thực hiện các thao tác trong sinh hoạt hằng ngày như: cầm nắm đồ vật không chắc (có khi cầm không chắc bị rơi đồ vật) hoặc thực hiện không chuẩn các thao tác khi mặc quần áo, tắm, rửa, giặt giũ. Song song với rối loạn các động tác cầm nắm, các cơ ở bàn tay, ngón tay cũng sẽ bị teo nhỏ dần và các khớp bàn tay, ngón tay có thể biến dạng. Vì vậy, hậu quả của thoái hóa khớp bàn tay, ngón tay có thể dẫn đến tàn tật (cứng các khớp xương ngón tay, cơ bàn tay teo nhỏ, ngón tay bị biến dạng).
Cần phải làm gì?
Khi nghi ngờ thoái hóa khớp bàn tay cần đi khám bệnh để được điều trị và tư vấn. Nguyên tắc chung trong điều trị thoái hóa khớp là dùng thuốc kháng viêm, giảm đau toàn thân hay tại chỗ kèm theo lý liệu pháp phòng biến dạng khớp. Tuy vậy, nên dùng thuốc gì và dùng trong bao lâu là công việc của bác sĩ khám bệnh, người bệnh không nên nóng vội tự mua thuốc để điều trị, bởi vì, thuốc chống viêm giảm đau sẽ có các tác dụng không mong muốn phải có ý kiến của bác sĩ mới được dùng.
Để khắc phục triệu chứng đau và cứng khớp ngón tay, hàng ngày nên ngâm bàn tay vào nước muối nhạt (nước muối sinh lý), ấm hoặc xoa bóp với dầu làm nóng (dầu chàm, cao sao vàng, dầu gió) hoặc xoa bóp bằng keo (gel) có chứa hoạt chất chống viêm (voltagel, deepheat, diclophenac…).
Share:

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Biện pháp phòng ngừa thoái hóa xương khớp

Thời tiết thay đổi, khí hậu lạnh là những yếu tố ngoại cảnh tác động lớn đến các khớp trong cơ thể, nhất là khớp gối và cột sống.
Thời tiết thay đổi, khí hậu lạnh là những yếu tố ngoại cảnh tác động lớn đến các khớp trong cơ thể, nhất là khớp gối và cột sống dẫn đến. Biểu hiện đau là dấu hiệu dễ nhận biết nhất, khi các khớp đã bị thoái hóa thì đau càng rõ ràng hơn, gây tâm lý lo lắng và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sống của người bệnh. Tuy nhiên, nếu thực hiện những chỉ dẫn dưới đây, người bệnh vẫn có những biện pháp để loại trừ chứng đau do thoái hóa khớp.
Phương pháp điều trị thoái hóa khớp
Nếu có dấu hiệu đau và hạn chế vận động ở khớp, cần phải đi khám bệnh để các bác sĩ đánh gía tình trạng bệnh và cho các điều trị thích hợp. Việc điều trị sẽ bao gồm:
Điều trị không dùng thuốc: tăng cường các kiến thức về sức khỏe, đặc biệt sức khỏe xương khớp; vận động, tập luyện, làm việc vừa sức; ăn uống dinh dưỡng hợp lý; tránh dư cân, béo phì, tránh mang vác vật nặng, tránh tăng áp lực cho sụn khớp và đĩa đệm; phát hiện và điều trị sớm các bệnh lý tại hệ thống xương khớp.
Điều trị bằng thuốc: điều trị triệu chứng đau và viêm cho người bệnh bằng thuốc giảm đau và các thuốc kháng viêm; làm chậm quá trình thoái hóa bằng các thuốc có thể cải thiện được tiến triển của bệnh. Hiện nay, việc điều trị thoái hóa khớp đã có nhiều tiến bộ với nhiều thuốc hữu hiệu: glucosamine sulfate dạng tinh thể, diacerein, acid hyaluronic… Các thuốc này đều cần được điều trị đủ liều theo hướng dẫn của các thầy thuốc.
Phẫu thuật: Trong những trường hợp bệnh nặng, không đáp ứng với điều trị nội khoa cần xem xét việc điều trị ngoại khoa kết hợp: mổ nội soi để cắt xương, loại bỏ dị vật, sửa trục khớp; mổ thay khớp nhân tạo khi khớp bị mất chức năng.

 Thoái hóa cột sống thắt lưng.

Các cách phòng ngừa thoái hóa khớp
Để đề phòng và hạn chế thoái hóa khớp, ngay khi còn trẻ cần tập thể dục đều đặn, tránh bị dư cân, tránh những động tác quá mạnh, nhất là những động tác có thể làm lệch trục khớp và cột sống. Điểm lại các nguyên nhân thường gặp, chúng ta thấy rõ thoái hóa khớp là bệnh có thể ngăn ngừa được. Sau đây là các biện pháp được các nhà chuyên môn khuyến cáo:
- Duy trì trọng lượng cơ thể ở mức độ thích hợp, tránh dư cân béo phì.
- Tập vận động thường xuyên và vừa sức: luyện tập thể dục, thể thao vừa sức sẽ giúp cơ bắp khỏe mạnh, máu huyết lưu thông dễ dàng. Đó là yếu tố giúp tăng cường dinh dưỡng cho lớp sụn khớp. Cơ bắp khỏe mạnh sẽ giúp giảm lực đè ép lên khớp xương và giảm khả năng té ngã trong sinh hoạt và lao động.
- Giữ tư thế cơ thể luôn thẳng và cân bằng: Tư thế tốt sẽ giúp bảo vệ các khớp tránh sự đè ép không cân đối. Ở tư thế thẳng sinh lý, diện tích tiếp xúc giữa hai mặt khớp sẽ đạt mức tối đa vì thế lực đè ép sẽ tối thiểu. Hơn nữa, khi đó sẽ có sự cân bằng lực giữa các dây chằng và cơ bắp quanh khớp, giúp giảm bớt nhiều nhất lực đè ép lên hai mặt sụn khớp.
- Sử dụng các khớp lớn trong mang vác nặng và tránh quá sức: khi nâng hay xách đồ nặng, bạn cần chú ý sử dụng lực cơ của các khớp lớn như ở tay và khớp vai, khớp khuỷu; ở chân là khớp háng, khớp gối. Khéo léo sử dụng nguyên tắc đòn bẩy ở những khớp lớn để tránh làm tổn thương các khớp nhỏ như cổ tay, cổ chân, bàn tay, bàn chân và nên tận dụng thêm sự hỗ trợ (của dụng cụ hay người khác).
- Giữ nhịp sống thoải mái và thường xuyên thay đổi tư thế: Bạn nên sắp xếp công việc hợp lý, hài hòa giữa nghỉ ngơi và lao động. Nên nhớ rằng các cơ quan trong cơ thể đều cần có sự nghỉ ngơi để tái tạo lại năng lượng. Không nên lặp đi lặp lại một công việc hay tư thế làm việc kéo dài quá sức chịu đựng của cơ thể. Lực tác động không lớn nhưng nếu lặp đi lặp lại trong thời gian quá dài sẽ làm tổn thương khớp.
- Điều trị tích cực các bệnh lý xương khớp mắc phải.
Biểu hiện của thoái hóa khớp
Đau:Triệu chứng sớm nhất của thoái hóa khớp là đau khi vận động, mới đầu chỉ đau khi khớp hoạt động, nghỉ sẽ hết đau; sau đó có thể đau âm ỉ, liên tục cả khi nghỉ, đau trội hơn khi vận động. Nếu thoái hóa khớp gối, người bệnh đau nhiều khi đi lại, đứng lên ngồi xuống khó khăn, nhất là lúc lên xuống thang gác hoặc đang ngồi xổm đứng lên, có khi đau quá bị khuỵu xuống đột ngột. Nếu thoái hóa cột sống thắt lưng, người bệnh bị đau âm ỉ ở vùng thắt lưng và thường đau trội lên về chiều sau một ngày làm việc phải đứng nhiều hay lao động nặng, lúc nằm nghỉ đau sẽ giảm. Khi đau, bệnh nhân làm các động tác cúi, nghiêng, ngửa hoặc xoay người rất khó khăn. Nếu thoái hóa khớp háng, người bệnh đau ở vùng bẹn, vùng trước trong đùi, có thể đau cả vùng mông lan xuống mặt sau đùi và dọc theo đường đi của thần kinh tọa.
Hạn chế vận động:Sau triệu chứng đau là tình trạng hạn chế vận động. Nếu bị thoái hóa khớp gối, các động tác gấp và duỗi thẳng chân bị hạn chế, đứng lên ngồi xuống khó khăn, có thể không ngồi được. Nếu bị thoái hóa khớp vai sẽ hạn chế các động tác đưa tay ra trước, ra sau, quay tay và không làm được một số động tác đơn giản như gãi lưng, chải đầu. Nếu bị thoái hóa khớp háng, người bệnh đi khập khiễng, giạng hay khép háng đều khó khăn, khó gập đùi vào bụng.
Tiếng kêu tại khớp:vận động khớp thường thấy tiếng lạo xạo hoặc lục khục.
Kèm theo có thể thấy đầu xương bị phì đại, lệch trục khớp, teo cơ…
Share:

Nguyên nhân dẫn đến thoái hóa khớp

Thoái hóa khớp là một bệnh khá phổ biến ở Việt Nam.Không những xảy ra ở những người lớn tuổi mà nó còn trẻ hóa độ tuổi mắc bệnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói với thanh niên như thế này
"Chưa ba mươi đã kêu già
Sáu ba mình nghĩ vẫn là đương trai"
Thế hệ thanh niên xưa đã phải tự xấu hổ với bác thì đến thế hệ chúng ta,những người trẻ và được sống trong một xã hội hòa bình,ổn định,một nền kinh tế không thiếu thốn như cha anh thì lại càng xấu hổ hơn bởi vì quá nhiều chứng bệnh khiến chúng ta già trước tuổi,làm cho chúng ta lười biếng hơn trong cuộc sống và thoái khóa khớp là một chứng bệnh khiến cho rất nhiều người trẻ khóc than,Vây nguyên nhân của thoái hóa khớp là gì,chúng ta cùng đi tìm nhé.
Sự lão hóa về tuổi tác (nguyên phát)

Theo qui luật của tự nhiên, ở người trưởng thành khả năng sinh sản và tái tạo sụn giảm dần và hết hẳn. Các tế bào sụn với thời gian tích tuổi lâu dần sẽ già, khả năng tổng hợp các chất tạo nên sợi collagen và mucopolysaccharide sẽ giảm sút và rối loạn, chất lượng sụn sẽ kém dần, tính chất đàn hồi và chịu lực giảm. Tuổi tác là một trong những nguyên nhân thoái hóa khớp.


Thường xuất hiện ở người sau 60 tuổi, nhiều vị trí, tiến triển chậm, tăng dần theo tuổi, mức độ không nặng.


Tuổi tác cao là nguyên nhân thoái hóa khớp phổ biến nhất


Tuổi tác cao là nguyên nhân thoái hóa khớp phổ biến nhất


Yếu tố cơ giới (thứ phát)


Yếu tố này là nguyên nhân thoái hóa khớp nhanh hơn bình thường. Yếu tố cơ giới thể hiện ở sự tăng bất thường lực nén trên một đơn vị diện tích của mặt khớp hoặc đĩa đệm là yếu tố chủ yếu trong thoái hóa khớp thứ phát, nó gồm:


• Các dị dạng bẩm sinh làm thay đổi diện tích tỳ nén bình thường của khớp và cột sống.


• Các biến dạng thứ phát sau chấn thương, viêm, u, loạn sản hay làm thay đổi hình thái, tương quan của khớp và cột sống.


• Sự tăng trọng quá tải: tăng cân quá mức do béo phì, do nghề nghiệp.


Gặp ở mọi lứa tuổi (thường dưới 40 tuổi) khu trú một vài vị trí nặng và phát triển nhanh.


Các yếu tố khác


• Do di truyền: cơ địa già sớm.


• Do nội tiết: mãn kinh, tiêu đường, loãng xương do nội tiết, do tuốc.


• Do chuyển hóa: bệnh gout.


Hãy năng vận động đúng cách để phòng ngừa những nguyên nhân thoái hóa khớp


Hãy năng vận động đúng cách để phòng ngừa những nguyên nhân thoái hóa khớp


Chúng ta đã cùng tìm hiểu những nguyên nhân thoái hóa khớp. Vậy làm sao để biết bản thân bị thoái hóa khớp. Hãy cùng trigaicotsong.com hiểu rõ hơn về những biểu hiện như thế nào?


Bệnh thoái hóa khớp khởi phát từ từ: ban đầu người bệnh có dấu hiệu cứng khớp, mội lần khoảng 15 phút. Sau đó xuất hiện đau khớp tăng khi vận động kéo dài và giảm khi nghỉ ngơi. Thoái hóa khớp thường biểu hiện rõ ở các vị trí: ngón tay, cột sống, khớp gối, khớp háng.


Khớp ngón tay: thường là do xuất phát từ yếu tố duy truyền, tỷ lệ thoái hóa khớp ngón tay ở phụ nữ cao hơn đàn ông (đặc biệt là phụ nữ mãn kinh)


Có nhiều nguyên nhân thoái hóa khớp tay


Cột sống thắt lưng: ở giai đoạn khởi phát bệnh nhân bị đau lưng nhiều vào buổi sáng khi vừa thức dậy, tầm 30 phút thì khỏi. Một thời gian sau, đau lưng kéo dài cả ngày, gia tăng khi làm việc và giảm khi nghỉ ngơi. Bệnh thoái hóa cột sống hay gặp từ đốt sống thắt lưng trở xuống, thường ảnh hưởng đến thần kinh tọa làm người bệnh đau từ lưng xuống chân.


Ít vận động, ngồi nhiều, béo phì là nguyên nhân thoái hóa khớp cột sống


Ít vận động, ngồi nhiều, béo phì là nguyên nhân thoái hóa khớp cột sống


Cột sống cổ: hay gặp ở người trên 40 tuổi, biểu hiện đau mỏi phía sau gáy lan đến cánh tay, đau vùng gáy, đau cổ cánh tay, đau vai, đau vùng ngực, lưng.




Đau vùng gáy thật sự là nỗi lo lắng cho tuổi 40


Gót chân: bệnh nhân có cảm giác bị thốn ở gót chân lúc sáng mới ngủ dậy, đi được vài chục mét thì hết.


Thoái hóa khớp gối: biểu hiện qua hành động người bệnh khi ngồi xổm thì đứng dậy gặp khó khăn, có khi cần phải níu vào vật khác để đứng dậy, thấy tê chân. Đau nhiều hơn khi đi lại nhiều, ngồi xổm, gấp chân.


Chịu lực nhiều ở đầu gối làm lớp sụn mỏng dần là nguyên nhân thoái hóa khớp gối


Chịu lực nhiều ở đầu gối làm lớp sụn mỏng dần là nguyên nhân thoái hóa khớp gối


Thoái hóa khớp háng: người bệnh đi lại khó khăn do khớp háng gánh chịu trọng lượng cơ thể nhiều nhất, thường gây đau vùng bẹn sau đó lan xuống đùi, đau tăng khi cử động hoặc đứng lâu.


Có nhiều nguyên nhân thoái hóa khớp. Bệnh thoái hóa khớp không những gây đau đớn cho người mang bệnh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng cuộc sống mà còn gây tổn thất về kinh tế cho bản thân người bệnh và cho cả xã hội. Phòng ngừa thoái hóa khớp và điều trị khớp bị thoái hóa là cần thiết.


Khi bị bệnh thoái hóa khớp, bạn hãy sử dụng Tọa Cốt Thống của chúng tôi để điều trị kịp thời và dứt điểm căn bệnh phiền toái này nhằm đảm bảo không để lại biến chứng về sau.


Share:
Được tạo bởi Blogger.